NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CHỮA UNG THƯ KHÔNG ĐỘC HẠI VỚI CƠ THỂ
18/09/2017
Sự khác biệt cơ bản giữa hai phương pháp điều trị ung thư hiện nay (phương pháp chính thống) và phương pháp không độc hại:
- Phương pháp chính thống (phẫu thuật, hóa trị, xạ trị): coi khối u là nguyên nhân gây bệnh, sử dụng các biện pháp: phẫu thuật, hóa trị, xạ trị để trực tiếp loại trừ, tiêu diệt khối u.
- Phương pháp không độc hại: coi khối u chỉ là biểu hiện của sự mất cân bằng trong cơ thể, gây ra do những nguyên nhân đã được nói ở chương 1. Với quan điểm này, khối u chỉ là triệu chứng khi cơ thể bị suy yếu toàn diện. Do đó, chữa ung thư bằng những phương pháp này không chỉ coi khối u là mục đích của việc chữa bệnh, mà dựa vào từng quan điểm về nguyên nhân gây ung thư, đưa ra các mục tiêu sau:
1. Tăng cường hệ thống miễn dịch, bao gồm:
- Thải độc toàn bộ cơ thể
- Trung hòa phân tử tự do
- Diệt virus, vi khuẩn, nấm, giun, sán và các sinh vật ký sinh trong cơ thể
- Cuộc sống tinh thần: thay đổi lối sống, tạo quan điểm lạc quan về cuộc sống, tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn.
- Tạo nếp sinh hoạt điều độ, tập yoga, khí công, thiền…
2. Diệt tế bào ung thư: để diệt tế bào ung thư, các phương pháp này phân tích sự khác nhau cơ bản giữa tế bào ung thư và tế bào thường, rồi tìm cách tấn công tế bào ung thư (tiêu diệt hoặc khống chế - không để chúng phát triển) mà không làm ảnh hưởng đến tế bào thường và hệ thống miễn dịch của cơ thể. Vì vậy, không như hóa trị và xạ trị, các sản phẩm này có thể sử dụng lâu dài mà không có hại. Trong trường hợp này, bệnh ung thư được coi như các căn bệnh mãn tính khác.
3. Tạo môi trường làm cho tế bào ung thư không phát triển được và sẽ chết dần, hoặc trở lại thành tế bào thường.
4. Hỗ trợ tối đa hệ thống tiêu hóa, để thông qua đó, thực hiện các biện pháp trên.
Các phương pháp chữa ung thư sẽ được giới thiệu dưới đây đều sử dụng cách tiếp cận vấn đề như trên.
CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN VIỆC TĂNG CƯỜNG HỆ THỐNG MIỄN DỊCH HOẶC TĂNG CƯỜNG TRAO ĐỔI CHẤT TRONG CƠ THỂ:
I. Phương pháp Hoxsey
Phương pháp Hoxsey (sử dụng thảo dược) được biết đến rộng rãi tại Mỹ vào những năm 1950. Harry Hoxsey (sinh năm 1901 tại Mỹ), là người đã sử dụng phương pháp này chữa khỏi cho hàng ngàn bệnh nhân ung thư, và có công truyền bá công thức này rộng rão cho công chúng. Quay ngược lại với lịch sử, ông nội của Harry (John Hoxsey) có một con ngựa bị khối u ung thư ở chân. Vì đó là con ngựa ông quý mến, nên rất chú ý chăm sóc nó. John để ý thấy rằng, con ngựa hay ăn lá, hoa và quả tại một bụi cây, mà trước khi bị bệnh nó không bao giờ ăn. Sau vài tháng, bệnh ung thư của nó khỏi hẳn. Rất tò mò, John bắt đầu chiết xuất nước của loại cây đó để chữa bệnh ung thư cho ngựa cung như các loài vật khác, và rất thành công. John đã truyền lại công thức này cho con trai (là bố của Harry). Ngoài việc dùng công thức này chữa cho súc vật, bố Harry bắt đầu lặng lẽ chữa ung thư cho người. Vào năm 8 tuổi, Harry thường giúp đỡ bố chữa ung thư cho những người dân địa phương (thường là đã hết hy vọng), và rất thành công. Trước khi chết, bố Harry đã giao lại công thức và trách nhiệm giữ bí quyết của công thức chữa ung thư này cho ông. Để có thể có giấy phép chữa bệnh cho bệnh nhân một cách đúng luật, Harry quyết định góp tiền để thi vào trường y. Trong thời gian đó, rất nhiều bệnh nhân ung thư nặng tìm đến, van xin, năn nỉ ông chữa bệnh, và ông không thể từ chối. Ông đâu biết chính việc làm nhân đạo là chữa bệnh không có giấy phép cho vài bệnh nhân không còn hy vọng, đưa họ trở lại với cuộc sống khỏe mạnh – lại khóa chặt cánh cửa vào đại học y của ông – ông bị cấm thi vào ngành y. Ông đành phải tiến hành chữa bệnh (gọi là dưới sự hướng dẫn nghề nghiệp) của những bác sĩ khác, và giàn được những thành công rất lớn. Vào năm 1924 (23 tuổi), ông mở bệnh viện chữa ung thư chính thức bằng phương pháp thảo dược Hoxsey đầu tiên tại Dallas – Mỹ. vào những năm 1950, nó trở thành bệnh viện tư nhân chữa ung thư lớn nhất thế giới. Phương pháp Hoxsey rất thành công với các loại ung thư bên ngoài, với phương pháp sau:
- Dùng một hỗn hợp bột bôi vào ngay chỗ khối u.
- Uống dung dịch chiết xuất từ thảo dược.
- Ngòai ra, bệnh nhân được khuyên thay đổi chế độ ăn uống, và dùng thêm một số loại thực phẩm bổ trợ hoặc Vitamin
Thành phần của hỗn hợp bôi và dung dịch uống không còn là điều bí ẩn. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra là chúng bao gồm các chiết xuất gây độc hại hoặc giết tế bào ung thư. Thành phần của dung dịch chiết xuất bao gồm: rễ cây burdock, rễ cây berberis, buckthorn bark, cascara, licorice, pokeroot, red clover, rễ cây stillingia, prickly ash bark và potassium iodide. Còn thành phần chính của loại bôi gồm bloodroot, loại thảo được đã được người da đỏ sử dụng để chữa ung thư hàng vài thế kỷ nay.
Với các loại ung thư không thể hiện ra ngoài, bệnh nhân chỉ uống dung dịch, cùng với các loại bổ sung như trên.
Vì không có giấy phép hành nghề, Harry liên tục bị bắt với cáo buộc: chữa bệnh không có giấy phép. Trên thực tế, bệnh viện chữa ung thư của Harry hoạt động đúng pháp luật, luôn có một bác sĩ có giấy phép được gọi là “hướng dẫn hành nghề” đứng tên. Nhưng đôi khi các trục trặc xảy ra, và Harry là người được thống kê có số lần bị bắt nhiều nhất trong lịch sử y học. Mõi khi Harry bị bắt, hàng ngàn bệnh nhân đã được ông cứu sống lại tụ tập trước cửa nhà tù để kêu gọi ủng hộ ông. Trong các phiên tòa, mà toàn bộ là Harry trắng án, chủ tọa hoặc bồi thẩm đoàn đều hoặc là trực tiếp, hoặc là có người thân, bạn bè đã được Harry cứu sống – đều bảo vệ ông. Chưa có một bệnh nhân nào do Harry chữa ra phản biện ông trước tòa. Lý do của những lần bị bắt và ra tòa này được giải thích như sau: vào thời gian đó, AMA (tên viết tắt của Hiệp hội y học Mỹ) vừa ra đời. Chụ tịch hiệp hội, tên là Morris Fishbein, muốn mua lại bản quyền của phương pháp chữa bệnh này, nhưng bị Harry từ chối. Morris luôn theo dõi và quấy rối, tìm mọi cách dọa nạt các bác sĩ làm việc cùng Harry, và tận dụng mọi cơ hội sử dụng pháp luật đối với bệnh viện của Harry. AMA có tạp chí riêng, cũng do Morris làm Tổng biên tập. Morris đã dùng tạp chí này để tấn công chính Harry và các bác sĩ sử dụng phương pháp của ông nhiều lần, khiến các bác sĩ rất ngại ngùng khi hợp tác với Harry.
Vào năm 1954, một nhóm độc lập gồm 10 bác sĩ từ nhiều vùng của nước Mỹ đã đến khảo sát bệnh viện của Harry. Sau hai ngày làm việc, gặp gỡ hàng trăm bệnh nhân đã được Harry chữa khỏi, nhóm bác sĩ đã đưa ra kết luận là phương pháp Hoxsey có tỉ lệ thành công cao, với nhiều bệnh nhân được chữa khỏi hoàn toàn, vẫn sống khỏe mạnh vài chục năm sau khi được Harry chữa.
Khi Harry buộc phải đóng cửa bệnh viện tại Dallas, Mildred Nelson– một hộ lý làm việc lâu năm tại bệnh viện (mẹ của bà được Harry chữa khỏi ung thư tiết niệu trong tình trạng không còn hy vọng), được phép của Harry Hoxsey, mở bệnh viện tại Tijuana-Mexico. Bà điều hành bệnh viện này 25 năm, sau khi Harry mất (năm 1974), và bà mất năm 1999. Hiện nay, bệnh viện vẫn hoạt động, do chị gái bà điều hành.
Chi tiết về bệnh viện như sau:
Bio – Medical Center
P.O. Box727
615 General Ferreira
Colonial Juarez
Tijuana, Mexico 22000
Phone: (011) 52 66 84 9011
II. Phương pháp Essiac
Tương tự như Hoxsey, phương pháp Essiac sử dụng chiết xuất của một số loại thảo dược có thành phần diệt tế bào ung thư. Lịch sử của phương pháp này như sau: Vào những năm cuối của 1800, một phụ nữ Canada bị ung thư vú giai đoạn cuối. Trong một lần tình cờ gặp một người đàn ông da đỏ, bà được ông này hướng dẫn cách sử dụng một số loại dược thảo pha uống hàng ngày. Người phụ nữ này thực hiện và khỏi ung thư sau vài tháng. Ba mươi năm sau (1922), khi đã già, trong thời gian nằm viện tại Ontario, bà đã hướng dẫn lại công thức này cho người hộ lý trưởng tên là Rene Caisse. Cô hộ lý này cũng tìm gặp người đàn ông da đỏ, và xin lại công thức từ chính ông này. Bốn loại thảo dược tạo nên công thức này là: rễ cây burdock (loại này có thành phần trong công thức Hoxsey), slippery elm bark, sheep sorrel và turkey rhubarb. Theo Caisse, khi được trộn theo tỉ lệ nhất định, xay và pha uống, tác dụng diệt tế bào ung thư sẽ được nhân lên gấp bội so với uống riêng từng loại. Quãng một năm sau đó, cô của Caisse phát hiện bị ung thư dạ dày đã di căn vào gan. Các bác sĩ đành bó tay và nói bà chỉ còn sống nhiếu nhất là vài tháng. Caisse dùng loại trà này cho cô của bà uống hàng ngày, cho đến khi bà khỏi hoàn toàn và sống 21 năm nữa. Từ năm 1934 đến 1942, Caisse bắt đầu dùng công thức này chữa ung thư không lấy tiền cho hàng ngàn bệnh nhân ung thư không còn hy vọng sống sót – khi các bác sĩ đã tuyên bố bó tay, trong đó có chính mẹ đẻ của bà, đã được chữa khỏi ung thư gan. Bà đặt tên công thức này bằng cách đọc ngược tên riêng của bà (Caisse – Essiac)
Với sự giúp đỡ của một số bác sĩ, bà mở bệnh viện chữa ung thư tại Bracebridge, Canada. Bệnh viện hoạt động theo phương thức từ thiện, kinh phí hoạt động chỉ lấy từ nguồn tự nguyện đóng góp.
Từ năm 1959-1962, bác sĩ Charles Brusch, người rất nổi tiếng trong giới y học tại Mỹ, đồng thời là bác sĩ riêng của Tổng thống John Kennedy, đã rất quan tâm và phối hợp với Caisse để chữa cho hàng ngàn bệnh nhân tại bệnh viện của ông ở Massachusettts.
Cuối cùng, vào năm 1977, ngay trước khi chết, bà đã trao lại công thức này cho hãng thuốc Resperin Corporation of Toronto với gía 1 USD.
Vào năm 1984 một phóng viên phát thanh, bà Elain Alexander, tiến hành loạt phỏng vấn bác sĩ Charles Brusch qua radio. Ngay lập tức, chương trình dấy lên sự quan tâm của hàng triệu người. Cũng bắt đầu từ đó, các bệnh nhân ung thư từ khắp nơi tìm mọi cách liên lạc với bà và bác sĩ Brusch, kế cả chầu chực trước của văn phòng và nhà riêng của họ để nhờ giúp đỡ. Trong thời gian bốn năm từ 1984, hai người đã làm mọi cách để có thể giúp đỡ bệnh nhân càng nhiều càng tốt. Cuối cùng, vào năm 1988, họ kết hợp để cho ra công thức trà Essiac, đặt tên là “Flor- Essence”. Sự khác nhau giữa Flor – Essence và Essiac (Resperin Corporation) là: Flor – Essence, ngoài 4 loại thảo dược cơ bản, có thêm 4 loại khác: blessed thistle, kelp, red clover, watercress. Ngoài ra, công thức này còn được một số nhà sản xuất khác đặt tên là: “Ojibwa tea” hoặc “Ojibwa Tea of Life”. Bạn có thể tìm thêm thông tin về phương pháp này theo các đường link sau:
III. Phương pháp Gerson
Ông Max Gerson, M.D., người Đức, là người đầu tiên áp dụng chế độ ăn uống và bổ sung thực phẩm trong điều trị ung thư. Phương pháp của ông dựa trên các yếu tố cơ bản: chế độ ăn uống nghiêm ngặt (không muối, rất ít đạm và chất béo), uống nước cà rốt và rau củ ép, thải độc gan bằng cách dùng café rửa ruột …Gerson là người đầu tiên chính thức nói ra quan điểm về nguyên nhân gây nên các bệnh mãn tính nguy hiểm là sự mất cân bằng trong chế độ dinh dưỡng. Ông cũng nhấn mạnh về vai trò quan trọng hàng đầu trong việc duy trì chức năng thải độc của gan trong việc chữa ung thư. Phương pháp của ông được tóm tắt như sau:
1. Mười ba cốc nước cốc nước rau củ và trái cây ép tươi mỗi ngày (một cốc/tiếng). Ông lý luận rằng nước rau củ, trái cây ép cung cấp rất nhiều enzymes, potassiumvà các loại vitamin cũng như khoáng chất cần thiết cho cơ thể bệnh nhân (vốn đang bị mất cân bằng dinh dưỡng trầm trọng).
2. Rửa ruột bằng cách dùng café nguyên chất cho vào đường hậu môn (5-6 lần/ngày). Café được giữ trong ruột 15 phút, chất caffeine và cac1c thành phần hóa học của café sẽ theo thành ruột và các mạch máu đi tới gan, kích thích các ống dẫn mật bị tắc mở ra để tống chất độc xuống ruột. Bằng cách đó, gan sẽ được trợ giúp để thải độc một cách rất hiệu quả.
3. Chế độ ăn uống rất nghiêm ngặt: không muối, không đường, rất ít chất béo và chất đạm.
4. Uống bổ sung các loại: potassium (dung dịch), potassium iodide, vitamin C, các loại men tiêu hóa, các chất hỗ trợ tuyến giáp, dầu hạt lanh (flaxseed oil), niacin, vitamin B-12, CoQ10, caster oil. Học viện Gerson cũng khuyên nên bổ sung vitamin B-17 hàng ngày.
Vì sự phức tạp của chế độ ăn uống, phương pháp này rất khó thực hiện, vì nó đòi hỏi chế độ sinh hoạt, ăn uống rất nghiêm ngặt. Chỉ riêng việc một ngày phải chuẩn bị đủ 13 cốc nước rau, củ, quả tươi – uống ngay sau khi ép đã là việc đau đầu cho tất cả bệnh nhân. Do vậy, khi bệnh nhân và gia đình quyết định chọn phương pháp này, nên lượng trước mức độ khó khăn trong việc thực hiện, để chuẩn bị cho sự thay đổi cơ bản về lối sống, sinh hoạt, có thể kéo dài vài năm.
IV. Phương pháp Vitamin B-17
Vitamin B-17, thường được gọi là “Amygdalin” hoặc “Laetrile”, là một chất chứa trong rất nhiều loại hoa quả thiên nhiên, đặc biệt có nhiều trong hạt mơ và các loại hạt có vị đắng khác. Trong một số tài liệu được tìm thấy tại Ai cập, vào thời Pharaon và tại Trung hoa vào những năm 2,500 trước công nguyên đều nhắc đến việc sử dụng hạt hạnh nhân đắng để chữa bệnh. Nhưng việc sử dụng Vitamin B-17 chỉ được biết đến một cách chính thức từ nửa đầu thế kỷ 20, khi vào năm 1802, một nhà hóa học tên Bohn , trong quá trình chiết xuất nước tinh khiết từ hạt hạnh nhân đắng, đã phát hiện có hydrocyanic acid được giải thoát ra. Ngay sau đó, rất nhiều nhà khoa học quan tâm đã tìm cách chiết xuất loại acid này. Tuy vậy, chỉ trong vòng 35 năm trở las5i đây, việc sử dụng Vitamin- B17 để chữa ung thư mới chính thức được thử nghiệm tại bệnh viện “Oasis of Hope” của bác sĩ Ernesto Contreras Rodriguez. Cơ chế hoạt động của Vitamin- B17 như sau:
Khi Vitamin B-17 kết hợp với một loại enzyme tên là ‘betaglucosidase’, nó tạo thành hai phân từ glucose, một phân tử benzaldehyde và một phân tử hydrogen cyanide (HCN). Trong cơ thể, các tế bào ung thư (và chỉ tế bào ung thư) chứa loại enzyme betaglucosidase. Khi HCN được tạo ra, chính nó trở thành một quả bom nhỏ diệt tế bào ung thư. Khi HCN gặp các tế bào thương, nó sẽ lập tức được loại enzyme rhodanese trung hòa, và do vậy không gây hại các tế bào khỏe mạnh.
Vitamin-B17 thường được sử dụng kết hợp với các loại khác như sau:
1. Vitamin B-17 viên 500mg : 6 viên/ngày chia 3 lần (một ngày sáu viên). Lưu ý: phải uống sau khi ăn. Trong thời gian đầu, có thể có cảm giác buồn nôn, do vậy nên uống với liều tăng dần, sau độ hai tuần mới uống đến liều tối đa là 6 viên/ngày. Khi có cảm giá buồn nôn, nên ăn một ít hoa quả, hoặc ngậm miêng gừng tươi sẽ đỡ bị nôn.
2. Vitamin B-15:uống theo liều chỉ định trên lọ
3. Vitamin C: 3-4 gr/ngày
4. Vitamin A: 10,000 -15,000 IU/ngày
5. Vitamin E: 400-800 IU/ngày
6. Barley Grass (cây lúa mạch): 10gr/ngày. Nên mua loại viên 500mg.
7. Shark cartilage (sụn cá mập)
8. Vitamin tổng hợp.
9. Nên ăn thêm hạt mơ (apricot kernels): tối đa 35 viên/ngày, chia đều, không ăn quá 6 hạt trong một tiếng.
Xin tham khảo thêm thông tin trên website sau:
http://worldwithoutcancer.org.uk/
V. Phương pháp Kelley:
Phương pháp này dựa trên quan điểm tế bào nhau thai của giáo sư John Beard.
Vào năm 1964, William Kelley (nha sĩ) phát hiện bị ung thư tụy đã di căn. Vì đây là dạng ung thư rất nguy hiểm, bác sĩ chẩn đoán ông chỉ sống được vài tuần nữa. Chẳng còn gì để mất, Kelley quyết định tự chữa bệnh cho mình bằng phương pháp dinh dưỡng, và thay đổi lối sống. Ông cho rằng: nguy6en nhân chính của ung thư là do cơ thể không có khả năng hấp thụ và tiêu hóa chất đạm (protein). Khi chế độ ăn quá nhiều chất đạm, tụy sẽ không còn khả năng để sản xuất đủ các enzyme giúp cho chúng ta tiêu hóa. Ông lý luận rằng, các loại enzyme do tụy sản xuất ra (đặc biệt là enzyme giúp cơ thể tiêu hóa đạm), quan trọng hàng đầu trong việc phòng và chữa ung thư. Ông cho rằng các loại enzyme này theo máu đi khắp cơ thể, tiêu hủy lớp đạm đặc biệt bảo vệ tế bào ung thư, giúp cho hệ thống miễn dịch của cơ thể tiệu diệt chúng. Sau khi khỏi bệnh, ông tự mầy mò nghiên cứu thêm, và đã chữa khỏi cho hàng chục ngàn bệnh nhân khác. Ngạc nhiên trước kết quả của các bệnh nhân được chữa theo phương pháp Kelley, bác sĩ Gonzaleze – đại học Cornell (Cornell University of Medical School) đã tiến hành theo dõi các bệnh nhân của Kelley trong 5 năm, và kết luận rằng: Chế độ ăn uống và lối sống đem lại những kết quả lâu dài và đáng kinh ngạc cho các bệnh nhân bị ung thư của mọi giai đoạn. Phương pháp chữa của ông bao gồm
1. Bổ sung liều rất cao các loại men tụy (pancreatic enzymes), cùng với các loại thực phẩm chức năng bổ sung dinh dưỡng.
2. Chế độ ăn uống nghiêm ngặt
3. Thải độc bằng café
4. Cải thiện đời sống tinh thần
5. Châm cứu và bấm huyệt
Chúng ta sẽ đi vào từng phần trong phương pháp chữa bệnh của Kelley.
1. Bổ sung liếu cao các loại men tụy (pancreatic enzymes): bệnh nhân phải uống quãng 30-40 viên enzymes tụy, cùng với các loại vitamin, khoáng chất và thực phẩm chức năng khác (tổng cộng quãng 150-200 viên/ngày)
2. Chế độ dinh dưỡng: theo các tài liệu khác nhau, có 2 quan điểm
- Chế độ ăn tốt nhất: không ăn bất cứ loại sản phẩm động vật nào (không thịt, cá, trứng sữa…). Ăn nhiều các loại gạo nguyên cám, rau củ sống cà rốt, su hào, rau có lá…). Với các loại rau buộc phải nấu, chỉ nên hấp sơ rồi ăn, không nấu kỹ. Ăn nhiều hoa quả tươi, các loại hạt (hạt đậu -nấu chín), hạt dưa, hạt bí, vừng (đen, trắng) - ăn sống. Ăn nhiều dầu oliu (loại extra virgin), và chỉ dùng để trộn sống, tuyệt đối không dùng dầu để chiên, rán hoặc xào. Trong thời gian chữa bệnh, không nên ăn các loại dầu thực vật khác.
- Với các bệnh nhân không thể tuân thủ chế độ ăn như trên, có thể ăn thêm các sản phẩm sữa ít béo (sữa chua, fomai, sữa tươi). Lưu ý luôn phải chọn các loại không có hoặc có rất ít chất béo, ăn rất vừa phải, chủ yếu bổ sung các loại đạm này vào các bữa ăn sáng. Tuyệt đối không ăn đạm động vật sau 13 giờ hàng ngày. Một tuần ăn cá một lần, hoặc ăn một quả trứng.
3. Thải độc bằng cafe: tế bào ung thư chết thải ra phải được đưa ra khỏi cơ thế càng nhanh càng tốt. Do vậy, định kỳ, bệnh nhân sẽ dừng thuốc vài ngày để cơ thể kịp thải độc ra. Kelley cũng khuyên bệnh nhân thực hiện chế độ rửa ruột bằng café (coffee enema) ít nhất 1 lần/ngày.
4. Cải thiện đời sống tinh thần: Kelley coi việc cải thiện cuộc sống tinh thần giữ vai trò rất quan trọng trong việc chữa ung thư. Ông khuyến khích bệnh nhân chấp nhận thực tế là mình bị bệnh, và tin tưởng là với quyết tâm cao, bệnh có thể được chữa khỏi hoàn toàn. Họ cũng được khuyến khích hướng tới cuộc sống nội tâm, hạn chế tối đa những suy nghĩ và hành vi tiêu cực.
5. Châm cứu và bấm huyệt:
Để thực hiện chữa bệnh theo phương pháp Kelley không hề đơn giản. Nó đòi hỏi bệnh nhân phải có nghị lực, lòng quyết tâm và ý thức kỷ luật cao độ. Bệnh nhân phải tuân thủ chế độ ăn và uống thuốc nghiêm ngặt trong thời gian dài. Khó nhất là tâm lý thèm ăn, mà bị hạn chế hấu hết các loại thịt động vật. Uống một ngày từ 150-200 viên thuốc (chia làm 9 lần) không hề là điều dễ dàng, dù đó đơn giản chỉ là vitamin, khoáng chất và các loại thực phẩm chức năng. Chỉ vài phút sau khi uống thuốc, cơ thể có thể có những phản ứng như chóng mặt, buốn nôn, xây xẩm mặt mày…, và điều đó diễn ra nhiều lần mỗi ngày. Chị tôi nói rằng: “Rùng hết cả mình khi nhìn thấy nắm thuốc mà mình sắp phải nuốt”. Hầu hết bệnh nhân đều trải qua “khủng hoảng lành bệnh”, có thể kéo dài hàng tháng, thể hiện ở các triệu chứng: sưng và đau hạch, sốt, nổi dị ứng kèm với ngứa khắp người…
Để giúp người đọc có thêm khái niệm về các loại vitamin, khoáng chất và thực phẩm chức năng cần uống, tôi xin liệt kê các loại bổ sung dinh dưỡng và enzymes tụy đang được chị tôi dùng hàng ngày.
Phương pháp Kelley có nhiều điểm giống nhau. Tuy vậy, hai phuong pháp này dựa trên hai quan điểm khác nhau về nguy6en nhân gây ung thư, và do vậy, khi đi cụ thể vào các sản phẩm được sử dụng, sẽ thấy có rất nhiều sự khác biệt.
VI. Phương pháp Budwig:
- Giáo sư Johanna Budwig (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1908, mất ngày 19 tháng 5 năm 2003), bảy lần được đề nghị giải Nobel, nhà dược học, hóa học, vật lý học, với bằng tiến sĩ về vật lý. Bà từng phụ trách nhóm chuyên gia nghiên cứu về thuốc và chất béo ở Viện nghiên cứu chất béo tại Đức (Federal Institite for Fats Research). Bà được giới chuyên môn công nhận là chuyên gia hàng đầu thế giới về dầu và chất béo (world’s leading authority on fats and oils). Bà nghiên cứu rất sâu về tác động độc hại của sự hydro hóa và các chất béo đã bị làm biến chất lên sức khỏe, đồng thời cũng kết luận về khả năng kỳ diệu của các axit béo thiên nhiên thiết yếu trong việc chữa bệnh mãn tính, kể cả ung thư. Bà đã viết một loạt sách, bao gồm: Ung thư- Vấn đề và giải pháp; Dầu Flaxseed – Sự cứu giúp trong việc chữa các bệnh Viêm khớp, Nhồi máu cơ tim, Ung thư và các bệnh mãn tính khác; Thực đơn chế độ ăn đạm và dầu…
- Năm 1952, Giáo sư Budwig đã viết nhiều tài liệu về một kết luận quan trọng: các chất béo không bão hòa là nhân tố quyết định trong việc đảm bảo kích thích hô hấp của tế bào. Kết hợp với chất đạm (amino axit – protein), chất béo không bão hòa giữ vai trò quan trong, thậm chí là vai trò quyết định, là cái cầu nối giữa chất béo và đạm, trong việc hấp thụ ô xy của tế bào, có vị trí trong tất cả các quá trình lớn lên và phát triển, trong việc tạo máu và nhiều quá trình khác. Trên cơ sở của nghiên cứu này, Dr. Budwig đã chữa cho rất nhiều bệnh nhân ung thư bằng chế độ ăn kết hợp dầu và đạm (gọi là Budwig diet hoặc protocol), sử dụng Flaxseed oils và Cottage Cheese, giúp cho tế bào ung thư dần trở lại hấp thụ ô xy một cách bình thường. Như Dr. Otto Warburg, người hai lần được giải Nobel, năm 1931 được giải Nobel về nghiên cứu cơ chế hô hấp của tế bào, đã giải thích: “Sự phát triển của tế bào ung thư bắt đầu bằng việc thiếu ô xy. Ung thư không thể sống trong môi trường giầu ô xy. Ung thư chỉ có một lý do cơ bản nhất: đó là sự thay thế việc hô hấp ô xy bình thường của tế bào cơ thể bằng việc hô hấp thiếu ô xy (tế bào trở thành anaerobic). Dr. Budwig đã thực hiện tiếp phần mà Dr. Otto Warburg không làm được: đó là tìm ra phương pháp giúp tế bào hô hấp bình thường, tạo môi trường giàu ô xy, tại đó tế bào ung thư không thể phát triển và sẽ tự bị tiêu diệt.
1.2. Nguyên liệu chính:
- Dầu flaxseed (flaxseed oils) – loại được chiết xuất lạnh (cold pressed). Tốt nhất là dùng loại dầu hữu cơ (organic). Dầu này phải được bảo quản trong tủ lạnh
- Cottage Cheese (tiếng Anh) ít béo (tối đa là 2% béo) hoặc quark (tiếng Đức). Có thể sử dụng yogurt không đường, ít béo thay thế nếu không thể tìm được Cottage Cheese. Bảo quản trong tủ lạnh.
1.3. Nguyên liệu bổ sung:
- Bột flaxseed (flaxseed powder)
- Sữa không béo (hoặc 1% béo trở xuống)
- Các loại hạt sống như hạt bí, hạt hướng dương…(trừ lạc và hạt điều).
- Các loại trái cây
1.4. Cách pha chế và liều lượng: Trộn 4 thìa canh Cottage Cheese với 2 thìa canh dầu flaxseed (tỉ lệ 2/1), dùng thìa trộn thật kỹ, sao cho dầu và cheese quyện vào nhau, không còn nhìn thấy vệt dầu nổi lên. Sau đó nếu thích có thể trộn thêm các loại (từ danh sách nguyên liệu bổ sung trong phần 1.3) như: 30-40ml sữa, trái cây cắt nhỏ, bột flaxseed, các loại hạt theo lựa chọn. Phải ăn ngay sau khi trộn sẽ có tác dụng tốt nhất. Giáo sư Budwig khuyên với những người bị bệnh mãn tính, 4-8 thìa ăn dầu (cùng với 8-16 thìa cheese) là liều lượng thích hợp. Liều từ 6 thìa dầu trở lên là chế độ dùng cho bệnh nhân ung thư. Đối với người bình thường, chế độ ăn 6 thìa cheese và 3 thìa dầu có thể giúp phòng các bệnh mãn tính, kể cả ung thư. Không uống bất cứ loại thuốc gì trong vòng 1,5 tiếng trước và sau khi ăn món này.
B. CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰA VÀO ĐẶC TÍNH CỦA TẾ BÀO UNG THƯ, VÀ TẠO MÔI TRƯỜNG ĐỂ TẾ BÀO UNG THƯ CHẾT HOẶC KHÔNG PHÁT TRIỂN ĐƯỢC
VII. Phương pháp Protocel
Protocel là một chất lỏng (không được chế từ thảo dược), nhằm vào cơ chế hô hấp của tế bào ung thư, không hề gây bất cứ ảnh hưởng nào cho tế bào khỏe mạnh. Công thức của Protocel do ông Jim Sheridan chế ra, với tên đầu tiên là Entelev, sau đó được đổi lại thành Cancell. Sheridan sinh năm 1912 tại Pennsylvania. Ông bắt đầu nghiên cứu về công thức hóa học chữa ung thư từ năm 1936 một cách độc lập, trong khi vẫn làm việc cho công ty hóa chất Dow Chemistry. Cùng trong thời gian đó, ông học luật và đã có giấy phép hành nghề công chứng viên. Năm 1946, ông rời công ty Dow Chemistry để hàng nghề luật. Trong lúc đó, ông cũng đã tự mày mò để thiết lập nên một phòng thí nghiệm cá nhân tại nhà, để tiếp tục phát minh công thức hóa học chữa ung thư. Vào năm 1950, ông được học bổng của trung tâm nghiên cứu ung thư Detroit, nơi ông có thể tiếp tục nghiên cứu hóa học chữa ung thư với điều kiện đầy đủ hơn. Một thời gian sau, ông đã đạt được kết quả chữa khỏi 70-80% trên chuột thí nghiệm. Vào năm 1983, ông đạt kết quả 80% trên số chuột được chữa. Để hiểu công thức do Sheridan tìm ra, ta nhớ lại quan điểm về tế bào kị khí (anaerobic) của giáo sư Otto Warburg. Trong cơ thể, có thể có các loại tế bào kị khí, không phải là tế bào ung thư. Nhưng bất cứ loại tế bào kị khí nào cũng là kết quả của sự biến đổi tế bào một cách không lành mạnh, dị dạng, và chính chúng là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh tật. Chúng ta cũng biết tại mỗi tế bào đều tồn tại dòng điện (điện dung), nếu dòng điện quá yếu, tế bào sẽ dần dần bị biến đổi thành tế bào kị khí. Tế bào kị khí tồn tại ở mức điện dung nhỏ hơn tế bào thường rất nhiều quãng -0.2 volt so với +0.4 volts). Protocell có tác dụng làm giảm địện dung của toàn bộ tế bào trong cơ thể quãng 15-20% so với mức thường. Với sự giảm này của điện dung, tế bào bình thường không bị ảnh hưởng. Nhưng tế bào kị khí (do không có cơ chế hô hấp oxy bình thường), đang tốn tại với mức điện dung tối thiểu là -0.2 volts, khi bị đẩy xuống 15-20%, (tức là xuống dưới ngưỡng tối thiểu để tồn tại). Lúc đó chúng (bao gồm cả tế bào ung thư) bị phá vỡ cấu trúc, trở thành các protein vô hại và bị cơ thể thải ra ngoài.
Quan điểm của Sheridan tương tự như quan điểm của Otto Warburg, nhưng được thể hiện ra ở việc đánh giá mức độ năng lượng của tế bào (cell energy level). Tế bào khỏe mạnh phải có mức năng lượng cao, để có thể hoàn thành các chức năng của nó. Khi mức độ năng lương không được đáp ứng đầy đủ trong thời gian dài, tế bào buộc phải biến đổi để có thể tồn tại. Nó sẽ biến đổi thành tế bào kị khí, khi mức năng lượng được cung cấp ở mức tối thiểu (ta có thể gọi là điểm ngưỡng). Tại mức ngưỡng, tế bào kị khí trở nên rất bền vững và khó tiêu diệt. Sheridan cho rằng sẽ rất khó để làm cho tế bào ung thư trở lại thành tế bào thường. Vì vậy, ông đã đi theo hướng tìm ra điểm ngưỡng điện năng của tế bào kị khí, mà khi xuống dưới điểm đó, tế bào ung thư bị phá hủy: Protcell đẩy điện năng của tế bào xuống dưới điểm ngưỡng để tế bào kị khí có thể liên tồn tại.
VIII. Phương pháp 714X
Vào đầu những năm 60, ông Gaston Naessens, nhà sinh học người Pháp, chế ra hai loại thuốc chữa ung thư, gây xôn xao trên thị trường. Ông đặt tên hai loại thuốc này là “Ana-Blast” và GN-24”. Năm 1964, ông sang Canada sinh sống. Năm 1970, ông giới thiệu loại thuốc mới, thay thế cho Ana-Blast và GN-24, đặt tên là 714X.
Naessens được biết đến khi còn bé như một đứa trẻ “thần đồng”. Năm tuổi, ông đã chế tạo được một xe có động cơ nhỏ chạy được. Tiếp đó, ông chế tạo chiếc xe máy dùng tại nhà. Năm 12 tuổi, ông chế tạo được một cái máy bay, và nó bay được.
Những năm đại học, ông học vật lý, hóa học, sinh học, sau đó đi chuyên sâu nghiên cứu về máu. Cùng một suy nghĩ và phương pháp như Royal Rife, ông chế tạo ra một loại kính hiển vi đặc biệt, đặt tên là “Somatoscope”, kết hợp giữa tia laser và tia cực tím, có thể phóng đại 30,000 lần và quan sát được các vi sinh vật còn sống trong máu. Ông quan sát thấy các vi sinh vật sống và biến đổi trong máu, đặt tên chúng là “somatid”. Ông tin rằng somatid chính là các loại virus và vi khuẩn sống ký sinh trong cơ thể, và ông có thể quan sát sự biến đổi qua các giai đoạn trong cuộc sống của chúng. Ông cũng thấy rõ sự khác nhau của chúng trong máu người khỏe mạnh và người bệnh. Trong máu của người khỏe mạnh, somatid trải qua 3 dạng trong vòng đời, nhưng với người bệnh, chúng trải qua tới 16 dạng trong vòng đời. Kết luận của ông là: somatic có mặt trong máu của mỗi người và giữ vai trò rất quan trọng (đặc biệt là trong sự phân chia tế bào), nhưng khi chúng bị ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh như: ô nhiễm, chấn thương hoặc căng thẳng, phóng xạ…, vòng đời của somatid sẽ biến đổi, trở thành không kiểm soát được – và gây nên bệnh ung thư. Theo lý thuyết của ông, tế bào không thể phân chia bình thường, nếu thiếu vai trò của Somatid: chúng tiết ra loại hoocmon Trefons, kích thích tế bào sinh trưởng và phân chia. Trong cơ thể của người khỏe mạnh, vòng đời của somatid trải qua 3 giai đoạn phát triển, và chúng tiết ra vừa đủ hormone Trefons. Khi cơ thể bị yếu đi do các lý do khác nhau, vòng đời của somatid sẽ kéo dài hơn rất nhiều và trải qua 16 dạng (trong đó bao gồm nhiều dạng của vi khuẩn, virus, nấm) – và chúng tiết ra rất nhiều hocmon Trefons (so với mức cơ thể cần). Chính hormone này kích thích tế bào sinh sản, phân chia nhanh hơn, đến mức không thể kiểm soát nổi, gây nên bệnh ung thư. Ông cũng lý luận rằng: một cơ thể khỏe mạnh sẽ chứa trong máu các chất ức chế bao gồm một số loại enzymes, hormones, vitamin và khoáng chất. Chế độ ăn uống thiếu dinh dưỡng và sự căng thẳng lâu dài làm giảm các chất ức chế trong máu, và do vậy kích thích các somatid biến đổi sang cuộc sống có vòng đời dài hơn.
IX. Phương pháp Cesium (High pH therapy)
Phương pháp này dựa trên quan điểm của giáo sư Otto Warburg về tế bào kỵ khí (anaerobic cancer cells) đã được nói trong chương 1. Tế bào thường chuyển thành tế bào ung thư trong môi trường thiếu ôxy, mà sự thiếu oxy xảy ra do môi trường tế bào có tính axit cao.
Người đầu tiên sử dụng cesium trong việc chữa ung thư là giáo sư Keith Brewer, sinh năm 1893. Ông tập trung nghiên cứu về màng tế bào, và kết luận rằng: tế bào ung thư hấp thụ cesium rất nhanh một cách dễ dàng (NKH: đ/n thay “rất nhanh một cách dễ dàng” bằng “rất nhanh và dễ dàng”) Ông phát triển phương pháp chữa ung thư bằng cesium – vì đây là loại khoáng chất hiện tồn tại có tính kiềm cao nhất. Vào cuối những năm 1970, ông bắt đầu thử nghiệm chữa ung thư cho động vật, đầu tiên là bằng rubidium (có tinh kiềm cao thứ nhì - chỉ sau cesium), sau đó thì sử dụng muối cesium. Các đợt thử nghiệm đều chứng minh rằng việc sử dụng khoáng chất có tính kiềm cao (rubidium và cesium) rất hiệu quả trong việc chữa ung thư của chuột, khối u giảm rõ rệt chỉ trong vòng 2 tuần. Vào năm 1981, ông bắt đầu thử nghiệm việc dùng rubilium và cesium để chữa cho nhưng bệnh nhân ung thư gia đoạn cuối, khi tất cả các bác sĩ đã xác định là không còn làm gì được nữa. Trong một lần thử nghiệm với 50 bệnh nhân gia đoạn cuối, kéo dài trong 3 năm, trong đó 47 bệnh nhân đã qua liều tối đa của hóa trị và xạ trị, 3 bệnh nhân đã hôn mê. Ba ngày sau khi bắt đầu với cesium, 47 bệnh nhân còn tỉnh đều xác nhận là hết đau (sau 1 đến 3 ngày), 3 bệnh nhân chết trong vòng 2 tuần (vì ung thư đã quá nặng và di căn khắp nơi trong cơ thể). Sau 3 năm, 25 bệnh nhân vẫn sống, và đây quả là một điều kỳ diệu: cả 50 bệnh nhân đều được đoán là chỉ còn sống vài tuần, trước khi bắt đầu chữa với cesium. Đối với những bệnh nhân chết trong vòng ba năm, các khối u đều nhỏ đi rõ rệt.
Phương pháp này thường phải thực hiện với sự theo dõi của bác sĩ, vì khi sử dụng liều cao cesium, cơ thể sẽ thiếu hụt potassium. Sự thiếu hụt trầm trọng potassium rất nguy hiểm và có thể dẫn tới cái chết do trụy tim. Tỉ lệ bình thường giữa potassium/cesium khi dùng phương pháp này là 3:1, nhưng với những bệnh nhân có bệnh về tim mạch, nên tăng tỉ lệ lên đến 5-6/1. Trước đây, cesium thường được dùng dưới dạng bột và viên. Hiện nay, cesium dưới dạng dung dịch ion hóa được sử dụng thông dụng hơn, vì mức độ an toàn cao do cơ thể dễ hấp thụ, nên có thể sử dụng với tỉ lệ thấp hơn để có được tác dụng tương tự. Potassium cũng luôn được bán kèm với cesium. Khi dùng phương pháp này, bệnh nhân được khuyến cáo phải thử máu thường xuyên để đo mức độ potassium trong máu. Ngay cả sau khi đã ngừng uống secium, bệnh nhân nên tiếp tục dùng potassium và thử máu trong vòng 2-3 tháng, vì cesium cần thời gian để được thải ra khỏi cơ thể.
Phương pháp cesium rất an toàn với hiệu quả cao, nhưng có một số phản ứng phụ: nó có thể gây khó chịu dạ dày, buồn nôn và tiêu chảy. Do vậy, luôn phải uống sau khi ăn. Bệnh nhân cũng có thể bị cám giác tê môi và sống mũi trong khoảng 20 phút sau khi uống
X. Phương pháp Rife (Rife Machine)
Nguyên lý của phương pháp này đã được trình bày rõ trong phần trên. Ở đây, tôi chỉ xin lưu ý thêm một điều: Toàn bộ máy móc do Rife chế tạo và sử dụng để chữa ung thư từ những năm 1930 đã bị tịch thu và phá hủy. Không ai có thể khẳng định chất lượng và tác dụng của các máy được chế tạo lại sau này, dựa trên nguyên lý của Rife. Do vậy, chỉ nên sự dụng phương pháp này để hỗ trợ cho các phương pháp khác, chứ tuyệt đối không sử dụng nó như phương pháp chữa chín