Trong vài ngày tới, quyển sách của Tiến sĩ Paul A. Offit sẽ được bán rộng rãi, và có thể làm rúng động những gì mà chúng ta vẫn tin tưởng vào các nghiên cứu và kết luận của khoa học hiện đại về sức khỏe con người. Cuốn sách có tên: “Bảy sai lầm của khoa học - Seven Stories of Science Went Wrong"
Điều gì xảy ra khi các nghiên cứu khoa học đi sai hướng, đưa ra các kết luận để áp dụng dài hạn, dựa trên những nghiên cứu cục bộ ngắn hạn, rồi trở thành nguyên tắc của cuộc sống. Ai đọc được tiếng Anh nên mua ngay quyển sách này.
Tôi đang sửa bản dịch của quyển sách khác có tên: “Điều bất ngờ lớn từ chất béo”, tìm ra được rất nhiều trường hợp, khi những nghiên cứu khoa học cho kết quả không đúng với mong đợi của nhóm nghiên cứu vụ lợi, đã bị “tảng lờ” đi, gây nên các hậu quả chết người trong hơn nửa thế kỷ qua. Tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn sách:
“Vào năm 1981, gần cả chục nghiên cứu tầm cỡ đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc làm giảm cholesterol với bệnh ung thư, chủ yếu là ung thư ruột kết. Trong thí nghiệm Framingham, những người đàn ông có hàm lượng cholesterol thấp hơn 190 mg/dL lại có tỉ lệ bị ung thư ruột kết cao hơn gấp 3 lần những người có hàm lượng cholesterol cao hơn 220 mg/dL. Thực tế, kể từ khi dầu bắp được chứng minh làm nhân đôi tốc độ tăng trưởng khối u của chuột vào năm 1968, đã bắt đầu có những quan tâm về liên quan của dầu thực vật và ung thư. (Các nghiên cứu khác cùng thời gian này đưa đến giả thiết rằng dầu bắp có thể gây ra bệnh xơ gan). Những người từng thành công khi hạ cholesterol qua những thí nghiệm về chế độ ăn hay uống thuốc lại có nguy cơ bị sỏi mật cao hơn nhiều. Những cơn đột quỵ cũng là một mối quan tâm. Ví dụ, ở Nhật Bản, một đất nước khá thu hút những nhà nghiên cứu tim mạch vì tỉ lệ mắc bệnh tim ở vùng nông thôn khá thấp, các điều tra viên NIH tìm ra rằng những người Nhật có hàm lượng cholesterol thấp hơn 180 mg/dL chịu đựng nguy cơ đột quỵ cao hơn từ hai đến ba lần so với những người có hàm lượng cholesterol cao hơn”
“Vào năm 1990, NHLBI đã tổ chức một cuộc họp khác về những vấn đề tỉ lệ tử vong do ung thư “tăng lên tới mức đáng chú ý” và những nguy cơ không liên quan đến tim mạch với những người có hàm lượng cholesterol thấp. Cholesterol càng thấp, càng khiến nguy cơ tử vong do ung thư trở nên tệ hơn. Và thật đáng thương, nó trở nên tệ hơn nữa với những người đàn ông khỏe mạnh muốn giảm cholesterol của mình qua chế độ ăn hay uống thuốc. Nhưng vẫn không có khuyến cáo nào sau những buổi họp này, và kết quả cũng không thay đổi các lời khuyên chính thức dành cho “chế độ ăn thận trọng” để giảm cholesterol. Những ảnh hưởng của cholesterol thấp lên sức khỏe vẫn chưa được tìm hiểu rõ”
"Bắt đầu vào năm 1968, nhà hóa sinh Ivan Frantz cho chín nghìn người ở sáu bệnh viện tâm thần bang Minnesota và một trại dưỡng lão ăn “thực phẩm truyền thống Mỹ”, với 18% chất béo bão hòa, hoặc một chế độ ăn chứa bơ thực vật mềm thay thế toàn bộ trứng, thịt bò ít béo và các sản phẩm bơ sữa “đầy” dầu thực vật. Chế độ ăn này giảm lượng chất béo bão hòa xuống còn một nửa. (Cả hai chế độ ăn đều chứa tổng cộng 38% là chất béo). Các nhà nghiên cứu đã báo cáo “gần 100% những người tham gia”, và vì những người tham gia đều là những bệnh nhân, nghiên cứu được kiểm soát kĩ hơn, mặc dù, giống như nghiên cứu bệnh viện Phần Lan, đã có một thỏa thuận tốt về lợi nhuận trong bệnh viện (trung bình bệnh nhân chỉ ở lại khoảng một năm).
Tuy nhiên, sau bốn năm rưỡi, các nhà nghiên cứu đã không tìm thấy bất kì sự khác nhau nào giữa nhóm điều trị và nhóm kiểm soát về những biến cố bệnh động mạch vành, chết vì bệnh động mạch vành, hoặc tỉ lệ chết. Tỉ lệ mắc ung thư cao hơn nhiều ở nhóm ăn ít chất béo bão hòa, mặc dù báo cáo không nói gì đến sự khác biệt này, dù rất đáng chú ý về mặt thống kê. Chế độ ăn ít chất béo bão hòa đã thất bại trong việc chỉ ra bất cứ lợi ích nào. Frantz, người làm việc trong bộ phận trường đại học của Keys, không hề công bố nghiên cứu này trong mười sáu năm, sau khi ông về hưu, và ông đưa kết quả của mình lên tạp chí Xơ Vữa Động Mạch, Nghẽn Mạch Máu và Sinh Huyết, tạp chí chỉ được sự quan tâm trong lĩnh vực tim mạch. Khi được hỏi vì sao ông không công bố những kết quả này sớm hơn, Frantz trả lời rằng ông không muốn nghĩ rằng mình đã làm gì sai trong nghiên cứu. “Chúng tôi khá thất vọng với những gì nhận được”, ông nói. Nói cách khác, nghiên cứu đã bị lựa chọn sẽ bị bỏ quên bởi chính giám đốc của nó. Nó là một dữ liệu bất lợi cần bị loại bỏ".